LUẬT VIỆT THANH
  
Tư vấn Luật dân sự » CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI MÀ TÒA ÁN CÓ QUYỀN ÁP DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN TIẾP NHẬN ĐƠN KHỞI KIỆN VÀ XEM XÉT VIỆC THỤ LÝ VỤ ÁN
CÁC BIỆN PHÁP KHẨN CẤP TẠM THỜI MÀ TÒA ÁN CÓ QUYỀN ÁP DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN TIẾP NHẬN ĐƠN KHỞI KIỆN VÀ XEM XÉT VIỆC THỤ LÝ VỤ ÁN

Theo quy định của pháp luật trong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó ( ĐKT - TANDTP.HCM).

                  Biện pháp khẩn cấp tạm thời ( BPKCTT) là những biện pháp mang tính tạm thời được áp dụng trong trường hợp khẩn cấp để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, bảo đảm việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Căn cứ vào quy định cụ thể của từng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 ( Bộ luật TTDS 2015) và Luật TTHC năm 2015( Luật TTHC 2015), các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể được chia làm 2 loại: Các BPKCTT có thể được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng kể cả trường hợp Tòa án chưa thụ lý vụ án và các BPKCTT được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án ( bắt đầu từ thời điểm Tòa án thụ lý vụ án).

1. Các BPKCTT có thể được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng
Một là biện pháp giao người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục[1].
Hai là biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng[2]
Ba là biện pháp buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khoẻ bị xâm phạm[3].
Bốn là biện pháp buộc người sử dụng lao động tạm ứng tiền lương, tiền bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, chi phí cứu chữa tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tiền bồi thường, trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp cho người lao động[4].
Năm là biện pháp tạm đình chỉ thi hành quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, quyết định sa thải người lao động[5].
Sáu là biện pháp cấm xuất cảnh đối với người có nghĩa vụ[6].
Bảy là biện pháp cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình[7].
Tám là biện pháp bắt giữ tàu bay, tàu biển để bảo đảm giải quyết vụ án[8].
Chín là biện pháp tạm dừng việc thực hiện hành vi hành chính[9].
2.     Các BPKCTT được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án
            Một là biện pháp kê biên tài sản đang tranh chấp [10].
            Hai là biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp[11].
            Ba là biện pháp cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp [12].
            Bốn là biện pháp cho thu hoạch, cho bán hoa màu hoặc sản phẩm, hàng hóa khác [13].
            Năm là biện pháp phong tỏa tài khoản tại ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, kho bạc nhà nước[14].
            Sáu là biện pháp phong tỏa tài sản ở nơi gửi giữ [15].
            Bảy là biện pháp phong tỏa tài sản của người có nghĩa vụ [16].
            Tám là biện pháp cấm hoặc buộc thực hiện hành vi nhất định [17].
            Chín là biện pháp tạm dừng việc đóng thầu và các hoạt động có liên quan đến việc đấu thầu [18].
            Mười là biện pháp tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh[19].
3.     Các BPKCTT mà Tòa án có quyền áp dụng trong giai đoạn tiếp nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý vụ án
            Có quan điểm cho rằng do Khoản 2 Điều 111 Bộ luật TTDS 2015 và Khoản 2 Điều 66 Luật TTHC 2015 có quy địnhtrong trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra thì cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật TTDS 2015 và Điều 68 của Luật TTHC 2015 đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó nên trong giai đoạn tiếp nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý vụ án thì Tòa án có quyền áp dụng tất cả các biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại Điều 114 của Bộ luật TTDS 2015 và Điều 68 của Luật TTHC 2015. Tuy nhiên theo quan điểm của người viết thì Khoản 2 Điều 111 Bộ luật TTDS 2015 và Khoản 2 Điều 66 Luật TTHC 2015 là các điều khoản quy định về quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT của người khởi kiện nhưng khi quyết định áp dụng BPKCTT thì Tòa án phải căn cứ vào quy định cụ thể về từng BPKCTT để xem xét và quyết định.  Do Bộ luật TTDS 2015 và Luật TTHC có quy định các BPKCTT có thể được áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng và các BPKCTT được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án. Do đó, khi giải quyết yêu cầu áp dụng BPKCTT đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện của đương sự thì Tòa án chỉ có quyền áp dụng các BPKCTT mà Tòa án có thể áp dụng trong tất cả các giai đoạn của tố tụng. Riêng các BPKCTT mà tại các điều luật quy định cụ thể về từng BPKC pháp luật có quy định Tòa án được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án thì Tòa án chỉ được áp dụng sau khi đã thụ lý vụ án.
            Biện pháp KCTT mà người khởi kiện được quyền yêu cầu cùng với việc nộp đơn khởi kiện là để bảo vệ chứng cứ và ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy nhưng nhìn lại quy định về các BPKCTT mà Tòa án có quyền áp dụng trong giai đoạn nhận đơn khởi kiện thì chỉ là các BPKCTT nhằm ngăn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy, thiếu các BPKCTT để bảo vệ chứng cứ. Quy định về các BPKCTT mà Tòa án chỉ được áp dụng trong quá trình giải quyết vụ án tại Bộ luật TTDS 2015 và Luật TTHC 2015 đã bộ lộ sự không đồng bộ giữa quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT của đương sự với quyền áp dụng BPKCTT của Tòa án. Mặt khác, trong một số trường hợp việc áp dụng các BPKCTT của Tòa án trong giai đoạn nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý sẽ có nhiều ý nghĩa trong việc giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản, thu thập chứng cứ, bảo vệ chứng cứ, bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được, đảm bảo cho việc giải quyết vụ án hoặc việc thi hành án. Do đó, cần thiết phải được sửa đổi lại các quy định cụ thể về một số biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các thủ tục tố tụng dân sự và tố tụng hành chính để Tòa án có quyền áp dụng tất cả các BPKCTT mà pháp luật đã quy định khi nhận đơn khởi kiện và xem xét việc thụ lý vụ án. Ví dụ : Với quy định về BPKCTT tại Điều 116 Bộ luật TTDS 2015 “Buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ cấp dưỡng được áp dụng nếu việc giải quyết vụ án có liên quan đến yêu cầu cấp dưỡng và xét thấy yêu cầu đó là có căn cứ và nếu không thực hiện trước ngay một phần nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ, đời sống của người được cấp dưỡng” thì Tòa án có quyền áp dụng biện pháp này trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng nhưng với quy định về BPKCTT tại Khoản 1 Điều 120 của Bộ luật TTDS 2015 “Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản.” thì Tòa án chỉ được áp dụng BPKCTT này trong quá trình giải quyết vụ án. Để biện pháp này có thể áp dụng được trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng thì chỉ cần điều chỉnh lại như sau: “Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản.”.
          Trên đây chỉ là các ý kiến mang tính chất tham khảo của người viết. Để việc áp dụng pháp luật được thống nhất rất cần các hướng dẫn mang tính quy phạm của cơ quan có thẩm quyền.
Đối tác - Khách hàng